028 3979 8335

Xác định tài sản tranh chấp là tài sản chung hay tài sản riêng của vợ chồng?

Chị N.T.B ở quận Đ.Đ, thành phố H.N hỏi:

Năm 1985, tôi và anh T.V.H kết hôn, chúng tôi có một con chung. Năm 1989, anh H chết. Năm 1995, tôi kết hôn với anh P.V.T, chúng tôi không có con chung. Năm 2009, tôi và anh T ly thân. Nay tôi muốn được ly hôn và yêu cầu chia tài sản chung. Tài sản tranh chấp có 3 ngôi nhà:

– Nhà số 1: do anh H được cha mẹ ruột cho từ năm 1981, anh H và tôi quản lý sử dụng từ năm 1985.

– Nhà số 2: do tôi được hưởng thừa kế từ cha mẹ tôi từ năm 1990.

– Nhà số 3: do anh T mua, đứng tên trên GCN QSDD và anh T đang sống tại căn nhà này từ năm 2012.

Luật sư cho tôi hỏi nếu tôi và anh T ly hôn thì 03 căn nhà trên được giải quyết như thế nào?

Chào chị B! Cảm ơn chị đã gửi câu hỏi về cho Văn phòng luật sư Chợ Lớn.

Chúng tôi xin trả lời câu hỏi của chị như sau:

– Nhà số 1 thuộc quyền sở hữu của anh H từ trước khi kết hôn với chị. Thời điểm kết hôn của anh chị (năm 1985) là thời kỳ Luật HN-GĐ năm 1959 có hiệu lực. Theo quy định tại Điều 15 Luật HN-GĐ năm 1959 thì “Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới”. Do vậy, từ thời điểm kết hôn, Nhà số 1 đã trở thành tài sản chung của anh H và chị. Dù sau này Luật HN-GĐ năm 1986 (hiệu lực từ 03/01/1987) quy định tài sản có trước khi cưới là tài sản riêng thì Nhà số 1 vẫn là tài sản chung của anh chị nếu không có sự kiện phân chia nào khác.

– Nhà số 2 là căn nhà mà chị được thừa kế năm 1990, là thời điểm Luật HN-GĐ năm 1986 có hiệu lực. Theo quy định tại Điều 16 Luật HN-GĐ năm 1986 thì “Đối với tài sản mà vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng hoặc được cho riêng trong thời kỳ hôn nhân thì người có tài sản đó có quyền nhập hoặc không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng”. Vì vậy, Nhà số 2 là tài sản của chị được thừa kế riêng.

– Nhà số 3 là nhà anh T mua năm 2012, là thời kỳ Luật HN-GĐ năm 2000 có hiệu lực. Theo quy định của Điều 27 Luật HN-GĐ năm 2000 thì “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung”. Anh T và chị kết hôn năm 1995, dù ly thân từ năm 2009 thì năm 2012 vẫn còn trong thời kỳ hôn nhân. Vì vậy, Nhà số 3 do anh T mua và đứng tên trên GCN QSDĐ vẫn là tài sản chung của vợ chồng chị.

Trong trường hợp nếu anh T và chị ly hôn thì chỉ có căn nhà số 3 được xem là tài sản chung của vợ chồng, trường hợp anh chị không thỏa thuận được sẽ do Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, nguyên tắc là tài sản chung được chia đôi nhưng sẽ dựa vào các yếu tố khác như: hoàn cảnh gia đình; công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung;… bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.

Xin gửi đến chị nội dung tư vấn của Văn phòng Luật sư Chợ Lớn, nếu chị có thắc mắc hoặc mong muốn được giải đáp chi tiết hơn thì vui lòng liên hệ đến số hotline hoặc đến trực tiếp trụ sở văn phòng.

Trân trọng./.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *