DIỄN BIẾN PHIÊN TÒA CỦA VỤ ÁN “BUÔN LẬU” 113KG VÀNG XUYÊN BIÊN GIỚI
Trong số này, nhân văn pháp đình đi sâu vào diễn biến phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án “Buôn lậu 113kg vàng xuyên biên giới” – là một trong những đại án đặc biệt nghiêm trọng, gây chấn động dư luận bởi quy mô hoạt động xuyên quốc gia, liên quan đến 02 đường dây buôn lậu chuyên nghiệp, trải rộng trên nhiều tỉnh thành và gây thiệt hại nghiêm trọng cho chính sách quản lý vàng, ngoại hối của Nhà nước. Với tổng cộng 113kg vàng nguyên liệu được vận chuyển trái phép qua biên giới Campuchia – Việt Nam.
Phiên tòa được xét xử công khai bởi Hội đồng xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh, với sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP. Hồ Chí Minh thực hành quyền công tố (04 Kiểm sát viên). Phiên tòa ghi nhận sự tham gia bào chữa của hơn 10 luật sư đến từ nhiều Đoàn Luật sư khác nhau như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, An Giang và Cần Thơ. Sự tham gia của các Luật sư thể hiện tính chất phức tạp, đa tầng và chuyên sâu của vụ án, đồng thời phản ánh sự đối trọng chuyên môn trong hoạt động tranh tụng tại Tòa.


Trong phần xét hỏi, các bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội, lời khai cơ bản phù hợp với hồ sơ trong hồ sơ vụ án. Vụ án được xác định có 02 đường dây buôn lậu chính với quy mô lớn:
- Đường dây do bị cáo N.H.S chủ mưu: tổ chức vận chuyển 36 kg vàng qua biên giới tại tỉnh An Giang, trị giá gần 80 tỷ đồng, bằng cách sử dụng xuồng máy vận chuyển tiền, USD sang Campuchia giao cho đầu mối người Campuchia rồi nhận vàng đưa về Việt Nam.
- Đường dây do bị cáo N.M.Tr chủ mưu: quy mô lớn hơn, với 77 kg vàng qua biên giới tại Long An (Cũ), trị giá hơn 172 tỷ đồng, bằng xe ba gác để giấu tiền, USD, vàng vào thùng đựng cá để qua mặt cơ quan chức năng.
Các bị cáo tham gia vận chuyển khai nhận được chia lợi nhuận hoặc nhận tiền công theo chuyến. Các chứng cứ liên quan kể cả lời khai cũng cho thấy các bị cáo đều biết rõ đó là vàng nguyên liệu nhập lậu.
Trong vụ án này, Văn phòng Luật sư Chợ Lớn tham gia bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Bị cáo N.C.Kh (chủ cửa hàng vàng A.K). Tham gia phần xét hỏi, do hành vi phạm tội khách quan của bị cáo đã rõ, nên Luật sư đi sâu vào nội dung nhằm làm rõ vai trò của bị cáo Kh, không chủ động trong việc mua vàng nguyên liệu không hợp pháp và cũng nhằm làm rõ bị cáo Kh không thỏa thuận, không tham gia, không liên quan trực tiếp đến việc mua và vận chuyển vàng từ Campuchia về Việt Nam, hành vi mua bán vàng của bị cáo Kh chỉ diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam, cụ thể:
Luật sư hỏi Bị cáo Tr: “Lý do nào mà bị cáo quen biết với bị cáo Kh?”
Bị cáo Tr: “Do bị cáo quen biết với ông S nên ông S giới thiệu cho bị cáo biết ông Kh”.
Luật sư hỏi Bị cáo Kh: “Bị cáo có nghe rõ bị cáo Tr trả lời không?”
Bị cáo Kh: “Bị cáo có nghe rõ. Tr trả lời có phần đúng nhưng chưa đủ. Đúng ở phần, Tr là người chủ động tới cửa hàng để đặt điều kiện bán vàng. Một vài lần đầu thì vàng Tr bán chỉ là vàng nguyên liệu đã được đúc thành khuôn. Bị cáo không biết số vàng này được nhập lậu từ Campuchia về. Sau khi đã có sự quen biết, Tr muốn bán được số lượng nhiều hơn và để nguyên vàng nguyên liệu nên Tr mới nói cho bị cáo biết vàng này là vàng nhập lậu từ Campuchia về”.
Có thể thấy, ngay cả ở tại thời điểm bị cáo Kh đã biết số vàng bị cáo Tr bán là vàng nguyên liệu nhập lậu từ Campuchia về, nhưng với nhận thức chủ quan, giản đơn của mình là do bị cáo không thỏa thuận, không tham gia bất cứ giai đoạn nào trong việc mua, vận chuyển vàng lậu qua biên giới, nên nếu hành vi buôn lậu của bị cáo Tr bị phát hiện, thì hành vi của bị cáo Kh cũng không liên quan đến hành vi buôn lậu của bị cáo Tr. Trường hợp có xem xét trách nhiệm thì cùng lắm chỉ có thể bị xử lý vi phạm hành chính.
Việc thiếu nhận thức đầy đủ về tính nguy hiểm của hành vi và hậu quả pháp lý, có thể xảy ra khiến bị cáo Kh khó đánh giá đúng mức độ vi phạm khi tham gia giao dịch liên quan đến vàng nhập lậu từ Campuchia về, mặc dù đáng lẽ ra, bị cáo buộc phải biết. Bị cáo Kh còn cho biết, việc “chốt giá – chốt số lượng” thông qua trao đổi trực tiếp hoặc qua ứng dụng công nghệ vốn là thông lệ phổ biến trong hoạt động kinh doanh vàng và với mức lợi nhuận thu được không đáng kể (do hai bị cáo mua bán vàng đúng giá thị trường) theo Cáo trạng và Bản án, thu lợi bất chính bị cáo Kh chỉ là ở mức thấp, chỉ 33.332.500 đồng (50.000 đồng/lượng). Điều này cho thấy, bị cáo Kh không cố tình giúp sức trong tội buôn lậu vàng, bị cáo cũng không vì động cơ, mục đích siêu lợi nhuận, mới mua số vàng nói trên của bị cáo Tr.
Về mặt nhân thân và tình tiết giảm nhẹ của bị cáo. Luật sư đã tập trung khai thác nhằm bảo đảm việc áp dụng pháp luật triệt để, theo hướng có lợi nhất cho bị cáo. Mặc dù, Cáo trạng đã ghi nhận và áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS, liên quan đến việc bị cáo tham gia công tác thiện nguyện, song nội dung này chưa phản ánh đầy đủ, toàn diện về những hoạt động thiện nguyện nổi bật và các đóng góp bền bỉ, lâu dài của bị cáo đối với cộng đồng. Chưa kể, trong đại dịch Covid-19, bị cáo luôn ở tuyến đầu phòng, chống dịch.
Ngay từ khi bước vào tuổi trưởng thành, xuyên suốt mấy chục năm, bị cáo đã tham gia và có nhiều công sức đóng góp vào công tác thiện nguyện. Mặc dù, bị cáo đã dành hơn nửa cuộc đời mình để hỗ trợ cộng đồng. Các hoạt động này được thể hiện qua nhiều giấy xác nhận, thư cảm ơn của các tổ chức từ thiện, chùa chiền cũng như mặt trận tổ quốc, chính quyền địa phương. Tuy nhiên, khi được Luật sư hỏi: “Bị cáo suy nghĩ như thế nào, khi làm công tác từ thiện?”
Nội dung trả lời của bị cáo đã làm cho cả khán phòng và ngay cả Luật sư cũng bị bất ngờ:
“Những đóng góp của bị cáo, bị cáo không nghĩ đó là làm từ thiện, mà là bị cáo đang thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm của một công dân. Bị cáo có được may mắn hơn một số, số phận khác. Đó là bị cáo có gia đình, có nghề nghiệp kinh doanh và có thu nhập tương đối ổn định”.
Việc làm của bị cáo không mang tính chất nhất thời, cũng không nhằm để đánh bóng tên tuổi hay tạo dựng danh tiếng, mà đơn giản chỉ là xuất phát từ lòng nhân ái và ý thức sâu sắc về trách nhiệm đối với cộng đồng, đối với xã hội. Bị cáo cũng chia sẻ thêm, khi làm công tác từ thiện, bị cáo không bao giờ nghĩ, có một ngày, bị cáo phải nói về những việc làm này; cũng không thể biết, theo quy định pháp luật, Luật sư có thể dùng những giấy xác nhận, những thư cảm ơn để đề nghị HĐXX áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo.
Đặc biệt, trong giai đoạn phòng, chống đại dịch Covid-19 từ năm 2019 đến năm 2021, bị cáo Kh là một trong những cá nhân tiên phong tại tuyến đầu phòng, chống dịch. Khi được Luật sư hỏi:
“Bị cáo tham gia tại tuyến đầu phòng, chống đại dịch Covid-19. Đứng trước nguy cơ cái chết luôn rình rập, bị cáo có sợ không?”
Bị cáo đáp: “Ai cũng sợ chết, bị cáo cũng không ngoại lệ, tuy nhiên giữa sống và chết lúc đó, hai vợ chồng bị cáo đã bàn bạc và thống nhất, ở nhà cũng có thể chết, xông pha lên tuyến đầu cứu giúp mọi người cũng có thể chết, vậy tại sao không chọn cái chết ý nghĩa nhất – cái chết có ích cho cộng đồng, cho những người đang bị nhiễm Covid-19 ngoài kia”.
Với suy nghĩ giản đơn, nhưng không phải ai cũng có được, bị cáo đã tham gia thường xuyên, liên tục vào các hoạt động phòng, chống dịch, trở thành một trong những cá nhân có thành tích xuất sắc được chính quyền địa phương khen thưởng. Hành động này thể hiện tinh thần trách nhiệm cao đối với cộng đồng, luôn sẵn sàng cống hiến, sẻ chia và hỗ trợ xã hội, ngay cả khi phải đối mặt với những nguy hiểm, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng của bản thân.
Lời trình bày chân thành, mộc mạc của bị cáo tại phiên tòa và không hề được chuẩn bị trước, đã khiến nhiều người tham dự xúc động, như sống lại giai đoạn khó khăn nhất của thành phố trong thời kỳ đại dịch. Nội dung những câu trả lời của bị cáo nói trên, đã khiến cả khán phòng lặng đi, nhiều người không cầm được nước mắt. Những lời nói ấy không chỉ thể hiện nhân cách cao đẹp, tinh thần cống hiến và ý thức xã hội sâu sắc. mà còn phản ánh tấm lòng nhân hậu, hướng thiện của bị cáo trong mọi hoàn cảnh.
Ngoài những tình tiết giảm nhẹ như khắc phục hậu quả, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhận thức pháp luật, vị trí vai trò của bị cáo có phần hạn chế, thì những nội dung hỏi – đáp nói trên, đã được Luật sư bào chữa cho bị cáo vận dụng một cách toàn diện, triệt để và sâu sắc trong phần phát biểu quan điểm bào chữa cho bị cáo. Từ đó, Luật sư đề nghị HĐXX xem xét toàn diện các tình tiết giảm nhẹ. Đặc biệt, về mặt nhân thân, trong đó có tình tiết giảm nhẹ của bị cáo trong việc làm từ thiện và tham gia tuyến đầu công tác phòng, chống dịch Covid-19 trong phần lượng hình.
Phần tranh luận diễn ra trong không khí trang nghiêm, căng thẳng và thể hiện trình độ chuyên môn cao của các bên tham gia tố tụng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP. HCM bảo lưu toàn bộ quan điểm truy tố, giữ nguyên cáo buộc các bị cáo phạm tội “Buôn lậu” theo điểm a khoản 4 Điều 188 BLHS năm 2015, cho rằng hành vi phạm tội của các bị cáo gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh, kinh tế và trật tự quản lý thị trường vàng. Từ đó, đề nghị mức hình phạt tương ứng đối với từng bị cáo, cụ thể:
- Bị cáo N.H.S từ 12 – 13 năm tù;
- Bị cáo N.M.Tr từ 15 – 16 năm tù;
- Bị cáo P.N.T từ 12 -13 năm tù;
- Bị cáo N.C.Kh từ 8 – 9 năm tù ;
Các bị cáo còn lại, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị HĐXX tuyên phạt từ 18 tháng đến 13 năm tù giam, cả 14 bị cáo cùng tội “Buôn lậu”.
Các Luật sư bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bị cáo đã đưa ra nhiều hướng lập luận khác nhau, cụ thể:
– Nhóm Luật sư bào chữa cho các bị cáo chủ mưu: thừa nhận hành vi phạm tội, đề nghị Tòa xem xét các tình tiết giảm nhẹ và xin giảm mức hình phạt, so với mức đề nghị của Viện kiểm sát.
– Nhóm Luật sư bào chữa cho các bị cáo vận chuyển thuê: cho rằng thân chủ chỉ là người làm thuê, văn hóa thấp, không có ý thức đồng phạm với chủ mưu; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ để giảm nhẹ hình phạt để các bị cáo sớm tái hòa nhập cộng đồng.
– Một số Luật sư khác: đề nghị áp dụng Điều 54 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), hưởng mức án dưới khung hình phạt liền kề, phù hợp với vai trò, mức độ lỗi và hoàn cảnh nhân thân.
Đáng chú ý, Luật sư bào chữa cho bị cáo N.C.Kh (Chủ cửa hàng vàng A.K), đã đưa ra những lập luận quan trọng, làm rõ ranh giới giữa hành vi “mua, vận chuyển vàng nguyên liệu qua biên giới” với hành vi “chỉ tiêu thụ vàng nguyên lậu nhập lậu trong nước”.
Khi đại diện Viện kiểm sát cho rằng: “Các bị cáo đều biết rõ đây là vàng nhập lậu, vẫn tiêu thụ, hưởng lợi, điều đó chứng tỏ có yếu tố cấu kết chặt chẽ trong việc tổ chức buôn lậu nhằm thu lợi bất chính siêu lợi nhuận”
Luật sư phản bác: “Mặc dù, các bị cáo đều bị quy kết phạm tội “Buôn lậu” nhưng cần phải làm rõ vai trò, vị trí, nguyên nhân, điều kiện nhận thức chủ quan,… của từng bị cáo nhằm đảm bảo nguyên tắc phân hóa tội phạm trong một vụ án đồng phạm. Trong vụ án này, giữa các chủ tiệm vàng, trong đó có bị cáo Kh với các bị cáo khác có điểm khác biệt rất lớn. Hành vi của bị cáo Tr, một số bị cáo khác là mua vàng nguyên liệu tại Campuchia, dùng mọi thủ đoạn tinh vi để vận chuyển số lượng vàng này qua biên giới, hành vi của bị cáo Kh chỉ là mua vàng nguyên liệu tại Việt Nam, sau khi toàn bộ quá trình mua, vận chuyển qua biên giới của bị cáo Tr và các bị cáo khác đã hoàn thành. Vì vậy, nhận định của Viện kiểm sát về việc giữa các bị cáo trong vụ án đồng phạm này có yếu tố cấu kết chặt chẽ trong việc tổ chức buôn lậu do vàng nguyên liệu là môt loại hàng hóa có thu lợi bất chính siêu lợi nhuận là chưa chính xác đối với tất cả các bị cáo. Tài liệu chứng cứ đã thể hiện, bị cáo Kh không bàn bạc, thống nhất, thỏa thuận với bị cáo Tr trong việc mua, vận chuyển vàng qua biên giới. Giá mua bán cũng theo giá thị trường, bị cáo Kh không vì mục đích thu lợi bất chính siêu lợi nhuận”.
Bên cạnh đó, Luật sư chỉ ra rằng, Cáo trạng áp dụng tình tiết tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS, đối với bị cáo Kh, là không có căn cứ. Bởi lẽ, cáo trạng đã tổng cộng toàn bộ số tiền bị cáo Kh bỏ ra để mua vàng trong 09 lần để áp dụng tình tiết định khung tăng nặng theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 188 BLHS – hành vi buôn lậu vật phạm pháp trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên. Tuy nhiên, lại tiếp tục áp dụng thêm tình tiết tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên”. Việc sử dụng cùng một yếu tố vừa làm dấu hiệu định khung, vừa làm tình tiết tăng nặng là trái với nguyên tắc của Điều 52 BLHS. Do đó, đề nghị không áp dụng tình tiết tăng nặng này đối với bị cáo Kh.
Ngoài ra, Luật sư cũng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bổ sung các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo Kh ngoài những tình tiết đã được nêu trong Cáo trạng. Mặc dù, chỉ là công dân bình thường, trình độ văn hóa hạn chế, bị cáo vẫn hết lòng vì cộng đồng và luôn đặt lợi ích xã hội lên trên hết, xứng đáng được xem xét là “người có thành tích xuất sắc trong công tác, đóng góp tích cực cho xã hội” theo điểm v khoản 1 Điều 51 BLHS. Luật sư nhấn mạnh, những đóng góp thực tế và tinh thần trách nhiệm của bị cáo đối với cộng đồng là rõ ràng, đáng được ghi nhận, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ để thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam.
Với bài viết này, chúng tôi đã phản ánh sâu sắc, trung thực diễn biến phiên tòa sơ thẩm vụ án “Buôn lậu” 113kg vàng xuyên biên giới tại TAND TP. Hồ Chí Minh – một vụ án với hai đường dây buôn lậu với quy mô lớn. Vụ án không chỉ phơi bày hoạt động buôn lậu một loại hàng hóa đặc biệt, mà còn đặt ra câu hỏi lớn trong việc kiểm soát biên giới và quản lý thị trường vàng trong nước.
Lập luận chặt chẽ, giàu tính pháp lý và nhân văn, Luật sư không chỉ bảo vệ hiệu quả quyền lợi hợp pháp cho bị cáo Kh, khẳng định nguyên tắc phân hóa trách nhiệm đồng phạm, mà còn góp phần đảm bảo tranh tụng bình đẳng, tạo tiền đề vững chắc cho việc áp dụng chính sách khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt phù hợp với bản chất vụ án.
Trong số cuối cùng của chuyên mục “Nhân văn pháp đình”, chúng tôi sẽ cập nhật phần lượng hình và cái kết của vụ án “Buôn lậu 113kg vàng xuyên biên giới” để Quý bạn đọc tiện theo dõi. Mọi ý kiến trao đổi, phản hồi xin vui lòng gửi trong phần bình luận bên dưới. Chúng tôi sẽ tổng hợp, phản hồi trên tinh thần khách quan, chính xác và đúng quy định pháp luật.
Ngày đăng: 04/11/2025

