028 3979 8335

Cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự

Tình huống:

Chị gái của tôi có vay của ông A 100.000.000 đồng. Theo Hợp đồng vay tiền thì thời hạn vay là 3 tháng và tiền lãi là 5%/tháng. Khi giao tiền, thì ông A chỉ đưa cho chị tôi 85.000.000 đồng và nói 15.000.000 đồng là tiền lãi.

Vậy Luật sư cho tôi hỏi: Hành vi cho vay tiền của ông A có phạm tội cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự không? Nếu có thì bị xử phạt như thế nào? Cảm ơn Luật sư.

Trả lời:

Liên quan đến câu hỏi của bạn, chúng tôi có tư vấn như sau:

1. Lãi suất cho vay theo quy định pháp luật

Căn cứ quy định tại Điều 463 Bộ luật Dân sự 2015 thì Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.

Căn cứ Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về lãi suất như sau:

“1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.

Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.

2. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ”.

Như vậy, tổ chức, cá nhân nào cho vay thỏa thuận lãi suất vượt quá 20%/năm thì sẽ trái với quy định của pháp luật.

2. Các yếu tố cấu thành tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự

Căn cứ khoản 1 Điều 201 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm”.

Theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 01/2021/NQ-HĐTP ngày 20/12/2021 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì “Cho vay lãi nặng” là trường hợp bên cho vay cho bên vay vay tiền với mức lãi suất gấp 05 lần trở lên mức lãi suất cao nhất quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự, tức là cho vay mức với lãi suất trên 100%/năm.

Như vậy, có thể hiểu “Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là”: Hành vi cho vay với lãi suất trên 100%/năm của một người hoặc một nhóm người có năng lực trách nhiệm hình sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp vì mục đích hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác mà xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước. Theo đó, các yếu tố cấu thành tội này bao gồm:

Thứ nhất, mặt khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan của tội cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự thể hiện ở một trong các hành vi sau:

Cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự (20%/năm), thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng trở lên.

Theo đó, các giao dịch vay mà lãi suất từ 20%/năm trở xuống là giao dịch có lãi suất hợp pháp; các giao dịch có lãi suất từ trên 20%/năm đến dưới 100%/năm là giao dịch có lãi suất bất hợp pháp, nhưng chưa đến mức bị xử lý về hình sự; các giao dịch có lãi suất từ 100%/năm trở lên mới thuộc đối tượng để xem xét trách nhiệm hình sự.

Tuy nhiên hành vi cho vay với lãi suất trên 100%/năm phải đi kèm điều kiện là số tiền thu lợi bất chính có được từ hành vi này là 30.000.000 đồng trở lên.

Nếu trong giao dịch dân sự, người cho vay với lãi suất từ 100%/năm trở lên nhưng thu lợi bất chính dưới 30.000.000 đồng thì cũng không bị coi là người phạm tội và hành vi trên cũng không cấu thành tội phạm này.

Theo hướng dẫn tại Công văn 212/TANDTC-PC ngày 13/9/2019 của Tòa án nhân dân tối cao về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến vướng mắc trong xét xử thì khoản tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự là tổng số tiền lãi mà người phạm tội thu được của tất cả những người vay, nếu hành vi cho vay lãi nặng được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian.

+ Cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự (20%/năm), thu lợi bất chính chưa đến 30.000.000 đồng nhưng trước đó đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi cho vay lãi nặng.

Theo đó, người phạm tội có hành vi cho vay với lãi suất trên 100%/năm đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này và chưa được xóa án tích theo Điều 7 và Điều 74 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 mà nay lại tiếp tục thực hiện hành vi cho vay với lãi suất từ 100%/năm trở lên nhưng thu lợi bất chính chưa đến 30.000.000 đồng.

+ Cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự (20%/năm), thu lợi bất chính chưa đến 30.000.000 đồng nhưng trước đó đã bị bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.

Theo đó người phạm tội có hành vi cho vay với lãi suất trên 100%/năm đã bị kết án về tội cho vay lãi nặng theo quy định tại Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 1985 hoặc Tội cho vay lãi nặng theo quy định tại Điều 163 Bộ luật Hình sự năm 1999 hoặc Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự theo quy định tại Điều 201 Bộ luật Hình sự năm 2015 và chưa được xóa án tích theo các Điều 70, Điều 71 và Điều 72 Bộ luật Hình sự năm 2015 mà nay lại tiếp tục thực hiện hành vi cho vay với lãi suất từ 100%/năm trở lên nhưng thu lợi bất chính chưa đến 30.000.000 đồng.

Hậu quả: Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.

Thứ hai, khách thể của tội phạm

Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước về tín dụng, cụ thể là trật tự trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, qua đó xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người vay. Ngoài ra cho vay nặng lãi có thể là nguyên nhân dẫn đến xâm phạm trật tự an toàn, an ninh, trật tự xã hội khi có hành vi siết nợ diễn ra trên thực tế.

Thứ ba, mặt chủ quan của tội phạm

Người phạm tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện.

Thứ tư, chủ thể của tội phạm

– Chủ thể khi thực hiện hành vi của tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là người từ đủ 16 tuổi trở lên, có khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi thì đều phải chịu trách nhiệm về tội này.

Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này, vì tội phạm này không có trường hợp nào là tội đặc biệt nghiêm trọng (theo quy định tại điều 12 Bộ luật Hình sự).

Đối chiếu với vụ việc, theo thông tin bạn cung cấp thì ông A cho chị gái bạn vay 100.000.000 đồng với mức lãi suất 5%/tháng tương ứng 60%/năm (từ trên 20%/năm đến dưới 100%/năm). Theo đó, đây là giao dịch có lãi suất bất hợp pháp nhưng chưa đến mức bị xử lý về hình sự.

Như vậy, hành vi cho vay của ông A chưa có đầy đủ yếu tố cấu thành tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự theo quy định tại Điều 201 Bộ Luật hình sự năm 2015.

3. Về hình thức xử lý đối với giao dịch có lãi suất bất hợp pháp nhưng chưa đến mức bị xử lý về hình sự

Căn cứ khoản 4 Điều 12 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình quy định:

“Điều 12. Vi phạm các quy định về quản lý ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự

4. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

d) Kinh doanh dịch vụ cầm đồ cho vay tiền có cầm cố tài sản nhưng lãi suất cho vay vượt quá tỷ lệ lãi suất theo quy định của Bộ luật Dân sự;

đ) Không đăng ký ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự mà cho vay tiền có cầm cố tài sản hoặc không cầm cố tài sản nhưng lãi suất cho vay vượt quá tỷ lệ lãi suất theo quy định của Bộ luật Dân sự;

7. Biện pháp khắc phục hậu quả:

a) Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được đối với hành vi quy định tại các điểm đ, i, k, l, m, n và r khoản 3; các điểm d, đ và k khoản 4 và điểm b khoản 5 Điều này;”

Theo đó, với hành vi cho vay vượt quá tỷ lệ lãi suất theo quy định của Bộ luật Dân sự (trên 20%/năm) thì ông A có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. Ngoài ra, ông A có thể bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được đối với hành vi vi phạm.

Trên đây là giải đáp của Luật sư liên quan đến câu hỏi của bạn. Nếu có thắc mắc gì, bạn có thể liên hệ với chúng tôi để được giải đáp.

Trân trọng!

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *